101-PHÁP NHƯ LÝ TÁC Ý
Giới Thiệu: Trong các trường phái dạy tu Thiền
Ðịnh Phật Giáo, chúng tôi không tìm thấy dạy rõ ràng về vấn đề tác ý trong khi
tu tập, hơn nữa lại không nhận thấy tầm quan trọng của sự tác ý trong sự chứng
đạt chân lý. Do đó nhiều người không có được may mắn hiểu biết rõ ràng và tu tập
đúng về pháp môn này. Vì vậy chúng tôi trích tiểu tựa này trong tập sách “Bậc
Ba Minh Dạy Luyện Tĩnh Giác”(nhuận lại 2008) để chư vị độc giả hiểu rõ hơn khi
đọc trong các kinh bộ Nikaya mà gặp từ “TÁC Ý”có ý nghĩa như vầy. (Tác giả
Nguyên Thiện)
1.- Tác
Ý
Cách thức
tác ý phải như thế nào để năng lực của câu tác ý phát triển, tăng trưởng cao,
chứng đạt được kết quả?
Chìa
khóa chính của vấn đề là chỉ khi nào tâm được an trú thì năng lực của câu tác ý
hiện khởi rất nhanh. Khi đó có trạng thái an trú thật sự chứ không phải an trú
là lúc thấy tâm an thân tịnh. Không phải vậy. Tâm an trú có trạng thái an trú
hiện ra.
Nhưng
trạng thái an trú chỉ hiện ra sau một thời gian tập luyện lâu dài và từ khi nó
hiện ra cho đến khi tâm an trú được trong trạng thái đó thì cũng phải tập luyện
một thời gian khá lâu nữa.
Khi
đã an trú trong trạng thái đó rồi, nếu muốn cái gì thì chỉ cần tác ý hướng tâm,
lực tác ý sẽ thực hiện điều đó nhanh chóng. Tâm lúc bấy giờ rất thanh tịnh.
Nhưng
đây chưa phải là ở trong giai đoạn 4 Như Ý Túc, vì 4 Như Ý Túc là giai đoạn phải
có 7 Giác Chi. Ở đây chỉ có trạng thái an trú và lực hướng tâm thôi.
Sử
dụng lực hướng tâm để vào các đề mục của Ðịnh Niệm Hơi Thở. Lực này chỉ là lực
ngầm của tự kỷ ám thị chứ thân tâm chưa li dục li ác pháp. Khi tâm an trú rồi
thì lực này hiện ra rõ ràng.
Khi
tác ý đề mục 5 “An tịnh toàn thân, tôi biết tôi hít vô; an tịnh toàn
thân, tôi biết tôi thở ra” thì có ý ngầm tạo ra lực trong lúc đó. Ðầu
tiên khi tác ý an tịnh – sau mỗi 5 hay 10 hơi hít thở – thì tâm nhận lệnh của
tác ý. Nó quan sát để thay đổi điểm trụ, dời điểm trụ đi. AN, quan sát thân an;
TỊNH, lắng nghe tâm tịnh. Cho nên không bị kẹt chỗ nào, không bị ức chế.
Có tập
lắng nghe thì nó mới xuất hiện ra trạng thái an tịnh thật.
Chừng khi
có trạng thái an tịnh rõ ràng thật mới được xem câu tác ý an tịnh có kết quả. Tác
ý an tịnh là làm cho tâm trú vào cái an ổn của thân. Khi tâm đã an trú vững
vàng rồi thì bắt đầu từ lúc này tập qua các đề mục sau (từ đề mục 6 trở đi) sẽ
dễ dàng.
Tu tập
Ðịnh Niệm Hơi Thở khi tác ý li tham, hay li sân, hay li si, mỗi cái LI thì hít
vô và khi thở ra thì cảm nghĩ như có tâm tham, hay tâm sân, hay tâm si theo hơi
thở mà đi ra.
Con
có cảm tưởng như thế. Tập luyện như vậy thì mới có kết quả thực tế, chứ còn tác
ý mà không có cảm tưởng gì hết thì không ích lợi gì đâu. Ðây là tập luyện phải
dùng tưởng một ít. Vậy mà ta hết tham, sân, si.
Biết sử
dụng tưởng thì rất hay, nó đưa con vào đúng pháp, chứ cái tưởng tự sanh thì
sai.
Cũng
như quán thực phẩm bất tịnh, quán thân bất tịnh có kết quả thì rất
hay. Con tưởng ra chứ thật sự không có cái nào bất tịnh ở đó.
Còn
khi hít thở, tưởng li tham, tưởng li sân, tưởng li si cũng tưởng ra, chứ hơi thở
làm gì có tham, sân, si trong đó.
Nhưng
ta tưởng mà nó li tham, sân, si thật sự, bởi vì khi huân vô bằng cái tưởng, thì
bây giờ li ra cũng bằng cái tưởng.
Tưởng
lâu ngày sinh ra năng lực. Năng lực tưởng mạnh lắm và có sức tác dụng vô cùng đặc
biệt. Các loại khí công, khinh công, bùa chú đều dùng năng lực tưởng.
Kinh
Hành Tĩnh Giác khi nhiếp tâm xong thì tác ý mỗi bước “An”, “Tịnh”.
Sau
khi trạng thái an tịnh hiện ra rồi thì tác ý “An – Trú”. An là trạng thái của
thân, còn trú là trạng thái của tâm trú vào sự an ổn đó, không còn bung ra,
không còn phóng dật.
Ðây
là tâm định trên thân, là tâm trú trên thân yên ổn của nó. Nếu thân không yên ổn,
không an thì tâm chỉ trú một lúc lại bung ra.
Khi
tác ý trong lúc kinh hành li ngũ triền cái, diệt ngũ triền cái, đoạn ngũ triền
cái mục đích là để tạo một năng lực ngầm trong người thôi; mãi tới lúc tập luyện
4 Niệm Xứ mới có năng lực thật của tâm (năng lực 7 Giác Chi).
Bây
giờ chỉ có năng lực ngầm, tạo thành một lực ngầm nhưng cũng thay đổi câu tác ý
để không bị nhàm do tác ý lâu chỉ một câu. Thí dụ quán li tham..., quán diệt
tham..., quán đoạn tham....
Khi
nào thì thay câu tác ý “An, Tịnh” sang câu tác ý “An, Trú” trong khi kinh
hành?
- Bắt đầu,
tác ý từng bước đi. Bước thứ nhất “An”, bước thứ hai “Tịnh”, cứ vậy tác ý “an –
tịnh”; “an – tịnh”... Lúc đầu mới tập thì chỉ dùng nó để nhiếp tâm thôi, tác ý
theo bước chân để đừng có vọng tưởng. Thí dụ khi đi kinh hành lâu thì có vọng
tưởng cho nên dùng câu tác ý theo từng bước để nhiếp tâm, cũng như cái lệnh
theo từng bước. Ðây là ta luyện Ðịnh Diệt Tầm Giữ Tứ trong khi đi để vọng tưởng
hoàn toàn không vô.
Vừa
tác ý, vừa nhiếp tâm, vừa tĩnh giác, mà cũng vừa cảm nhận sự an ổn. Câu tác ý
có công dụng như vậy. Nhưng sau khi thấy an ổn thật sự thì tập thưa tác ý ra.
Thí
dụ trong 5 hay 7 ngày con quyết định tập cứ mỗi bước đều tác ý “an-tịnh – an-tịnh”.
Tập
luyện như vậy cho đến khi nào thấy tác ý đã nhuần, không bao giờ quên, cứ mỗi
bước đi đều tác ý an – tịnh. Nếu khi ngồi lại hay trong khi đi mà không nghe
trong đầu tác ý, chỉ khi có tác ý, có ra lệnh mới nghe thì con vẫn dùng câu tác
ý đó.
Còn nếu
vừa mới bước đi mà nghe nó khởi nói tự động an-tịnh – an-tịnh thì phải dừng lại,
không tác ý nữa, nhưng lắng nghe sự an tịnh trong thân trong khi vẫn đi 5,
10 bước đi chứ không thì thành thói quen cứ tác ý trong đầu “an-tịnh – an-tịnh”
mỗi khi bước đi. Như vậy không được, sai rồi. Nó làm động con.
Ở đây
rất dễ bị quen rồi sanh ra tưởng. Thành thói quen cứ tác ý trong đầu mỗi khi bước
đi, cho nên không có sự an tịnh mà bị động. Không tác ý mà nó cứ tự động tác ý
thì làm động. Ðức Phật có nhắc nhở phải thiện xảo tùy theo khả năng của mình
làm sao phải đạt cho được chất lượng của câu tác ý theo đề mục. An trú tâm chỉ
có khi không được có niệm vọng tưởng. Còn vọng tưởng thì chưa thể có an trú tâm
được.
Con cần
phải tập cho tới chỗ tâm bất động, tức phải đạt cho được sự bất động tâm.
Khi
đã đạt được sự an tịnh bất động tâm rồi mà trong thân, trong tâm còn sanh cái
gì ra thêm, thấy có những cái gì khác nữa thì phải mau mau xả li.
Khi
tâm chưa an thì xả lâu, nhưng khi an được thì xả mau lắm vì câu tác ý có lực.
Tâm an rồi thì xem như trên mức của tự kỷ ám thị, nó có lực của như lý tác ý,
thuộc ý thức lực, nhưng chưa tới lực của 7 Giác Chi.
Khi
nào thực hiện 4 Niệm Xứ hoàn toàn viên mãn, 7 Giác Chi hiện ra rõ ràng thì mới
bắt đầu có năng lực thực hiện 4 Như Ý Túc.
Chỉ mới
đạt được bất động tâm mà trong thân đã cảm thấy khoẻ, không còn thấy mệt nhọc
gì, ham thích tập luyện lắm.
Ðến
chừng chứng đạt được Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thì mỗi Thiền lại
cho mình những trạng thái an trú càng lúc càng cao, năng lượng càng tăng lên
nhiều hơn, càng thấy khỏe hơn.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét