Thứ Sáu, 28 tháng 7, 2023

101-PHÁP NHƯ LÝ TÁC Ý

 

101-PHÁP NHƯ LÝ TÁC Ý

Giới Thiệu: Trong các trường phái dạy tu Thiền Ðịnh Phật Giáo, chúng tôi không tìm thấy dạy rõ ràng về vấn đề tác ý trong khi tu tập, hơn nữa lại không nhận thấy tầm quan trọng của sự tác ý trong sự chứng đạt chân lý. Do đó nhiều người không có được may mắn hiểu biết rõ ràng và tu tập đúng về pháp môn này. Vì vậy chúng tôi trích tiểu tựa này trong tập sách “Bậc Ba Minh Dạy Luyện Tĩnh Giác”(nhuận lại 2008) để chư vị độc giả hiểu rõ hơn khi đọc trong các kinh bộ Nikaya mà gặp từ “TÁC Ý”có ý nghĩa như vầy. (Tác giả Nguyên Thiện)

1.- Tác Ý

Cách thức tác ý phải như thế nào để năng lực của câu tác ý phát triển, tăng trưởng cao, chứng đạt được kết quả?

 Chìa khóa chính của vấn đề là chỉ khi nào tâm được an trú thì năng lực của câu tác ý hiện khởi rất nhanh. Khi đó có trạng thái an trú thật sự chứ không phải an trú là lúc thấy tâm an thân tịnh. Không phải vậy. Tâm an trú có trạng thái an trú hiện ra.

  Nhưng trạng thái an trú chỉ hiện ra sau một thời gian tập luyện lâu dài và từ khi nó hiện ra cho đến khi tâm an trú được trong trạng thái đó thì cũng phải tập luyện một thời gian khá lâu nữa.

  Khi đã an trú trong trạng thái đó rồi, nếu muốn cái gì thì chỉ cần tác ý hướng tâm, lực tác ý sẽ thực hiện điều đó nhanh chóng. Tâm lúc bấy giờ rất thanh tịnh.

  Nhưng đây chưa phải là ở trong giai đoạn 4 Như Ý Túc, vì 4 Như Ý Túc là giai đoạn phải có 7 Giác Chi. Ở đây chỉ có trạng thái an trú và lực hướng tâm thôi.

  Sử dụng lực hướng tâm để vào các đề mục của Ðịnh Niệm Hơi Thở. Lực này chỉ là lực ngầm của tự kỷ ám thị chứ thân tâm chưa li dục li ác pháp. Khi tâm an trú rồi thì lực này hiện ra rõ ràng.

  Khi tác ý đề mục 5 “An tịnh toàn thân, tôi biết tôi hít vô; an tịnh toàn thân, tôi biết tôi thở ra” thì có ý ngầm tạo ra lực trong lúc đó. Ðầu tiên khi tác ý an tịnh – sau mỗi 5 hay 10 hơi hít thở – thì tâm nhận lệnh của tác ý. Nó quan sát để thay đổi điểm trụ, dời điểm trụ đi. AN, quan sát thân an; TỊNH, lắng nghe tâm tịnh. Cho nên không bị kẹt chỗ nào, không bị ức chế. 

 Có tập lắng nghe thì nó mới xuất hiện ra trạng thái an tịnh thật.

  Chừng khi có trạng thái an tịnh rõ ràng thật mới được xem câu tác ý an tịnh có kết quả. Tác ý an tịnh là làm cho tâm trú vào cái an ổn của thân. Khi tâm đã an trú vững vàng rồi thì bắt đầu từ lúc này tập qua các đề mục sau (từ đề mục 6 trở đi) sẽ dễ dàng. 

 Tu tập Ðịnh Niệm Hơi Thở khi tác ý li tham, hay li sân, hay li si, mỗi cái LI thì hít vô và khi thở ra thì cảm nghĩ như có tâm tham, hay tâm sân, hay tâm si theo hơi thở mà đi ra.

  Con có cảm tưởng như thế. Tập luyện như vậy thì mới có kết quả thực tế, chứ còn tác ý mà không có cảm tưởng gì hết thì không ích lợi gì đâu. Ðây là tập luyện phải dùng tưởng một ít. Vậy mà ta hết tham, sân, si. 

 Biết sử dụng tưởng thì rất hay, nó đưa con vào đúng pháp, chứ cái tưởng tự sanh thì sai.

  Cũng như quán  thực phẩm bất tịnh, quán thân bất tịnh có kết quả thì rất hay. Con tưởng ra chứ thật sự không có cái nào bất tịnh ở đó.

  Còn khi hít thở, tưởng li tham, tưởng li sân, tưởng li si cũng tưởng ra, chứ hơi thở làm gì có tham, sân, si trong đó.

  Nhưng ta tưởng mà nó li tham, sân, si thật sự, bởi vì khi huân vô bằng cái tưởng, thì bây giờ li ra cũng bằng cái tưởng.

  Tưởng lâu ngày sinh ra năng lực. Năng lực tưởng mạnh lắm và có sức tác dụng vô cùng đặc biệt. Các loại khí công, khinh công, bùa chú đều dùng năng lực tưởng.

 Kinh Hành Tĩnh Giác khi nhiếp tâm xong thì tác ý mỗi bước “An”, “Tịnh”.

  Sau khi trạng thái an tịnh hiện ra rồi thì tác ý “An – Trú”. An là trạng thái của thân, còn trú là trạng thái của tâm trú vào sự an ổn đó, không còn bung ra, không còn phóng dật.

  Ðây là tâm định trên thân, là tâm trú trên thân yên ổn của nó. Nếu thân không yên ổn, không an thì tâm chỉ trú một lúc lại bung ra.

  Khi tác ý trong lúc kinh hành li ngũ triền cái, diệt ngũ triền cái, đoạn ngũ triền cái mục đích là để tạo một năng lực ngầm trong người thôi; mãi tới lúc tập luyện 4 Niệm Xứ mới có năng lực thật của tâm (năng lực 7 Giác Chi).

   Bây giờ chỉ có năng lực ngầm, tạo thành một lực ngầm nhưng cũng thay đổi câu tác ý để không bị nhàm do tác ý lâu chỉ một câu. Thí dụ quán li tham..., quán diệt tham..., quán đoạn tham....

 Khi nào thì thay câu tác ý “An, Tịnh” sang câu tác ý “An, Trú” trong khi kinh hành? 

- Bắt đầu, tác ý từng bước đi. Bước thứ nhất “An”, bước thứ hai “Tịnh”, cứ vậy tác ý “an – tịnh”; “an – tịnh”... Lúc đầu mới tập thì chỉ dùng nó để nhiếp tâm thôi, tác ý theo bước chân để đừng có vọng tưởng. Thí dụ khi đi kinh hành lâu thì có vọng tưởng cho nên dùng câu tác ý theo từng bước để nhiếp tâm, cũng như cái lệnh theo từng bước. Ðây là ta luyện Ðịnh Diệt Tầm Giữ Tứ trong khi đi để vọng tưởng hoàn toàn không vô. 

  Vừa tác ý, vừa nhiếp tâm, vừa tĩnh giác, mà cũng vừa cảm nhận sự an ổn. Câu tác ý có công dụng như vậy. Nhưng sau khi thấy an ổn thật sự thì tập thưa tác ý ra.

  Thí dụ trong 5 hay 7 ngày con quyết định tập cứ mỗi bước đều tác ý “an-tịnh – an-tịnh”.

   Tập luyện như vậy cho đến khi nào thấy tác ý đã nhuần, không bao giờ quên, cứ mỗi bước đi đều tác ý an – tịnh. Nếu khi ngồi lại hay trong khi đi mà không nghe trong đầu tác ý, chỉ khi có tác ý, có ra lệnh mới nghe thì con vẫn dùng câu tác ý đó.

  Còn nếu vừa mới bước đi mà nghe nó khởi nói tự động an-tịnh – an-tịnh thì phải dừng lại, không tác ý nữa, nhưng lắng nghe sự an tịnh trong thân trong khi vẫn đi 5, 10 bước đi chứ không thì thành thói quen cứ tác ý trong đầu “an-tịnh – an-tịnh” mỗi khi bước đi. Như vậy không được, sai rồi. Nó làm động con. 

 Ở đây rất dễ bị quen rồi sanh ra tưởng. Thành thói quen cứ tác ý trong đầu mỗi khi bước đi, cho nên không có sự an tịnh mà bị động. Không tác ý mà nó cứ tự động tác ý thì làm động. Ðức Phật có nhắc nhở phải thiện xảo tùy theo khả năng của mình làm sao phải đạt cho được chất lượng của câu tác ý theo đề mục. An trú tâm chỉ có khi không được có niệm vọng tưởng. Còn vọng tưởng thì chưa thể có an trú tâm được. 

 Con cần phải tập cho tới chỗ tâm bất động, tức phải đạt cho được sự bất động tâm.

  Khi đã đạt được sự an tịnh bất động tâm rồi mà trong thân, trong tâm còn sanh cái gì ra thêm, thấy có những cái gì khác nữa thì phải mau mau xả li.

  Khi tâm chưa an thì xả lâu, nhưng khi an được thì xả mau lắm vì câu tác ý có lực. Tâm an rồi thì xem như trên mức của tự kỷ ám thị, nó có lực của như lý tác ý, thuộc ý thức lực, nhưng chưa tới lực của 7 Giác Chi.

  Khi nào thực hiện 4 Niệm Xứ hoàn toàn viên mãn, 7 Giác Chi hiện ra rõ ràng thì mới bắt đầu có năng lực thực hiện 4 Như Ý Túc. 

 Chỉ mới đạt được bất động tâm mà trong thân đã cảm thấy khoẻ, không còn thấy mệt nhọc gì, ham thích tập luyện lắm.

  Ðến chừng chứng đạt được Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thì mỗi Thiền lại cho mình những trạng thái an trú càng lúc càng cao, năng lượng càng tăng lên nhiều hơn, càng thấy khỏe hơn.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

947-BỐN LỰC VÔ LẬU

  947-BỐN LỰC VÔ LẬU (25:21) Còn người tu mà tâm vô lậu, nó sẽ có cái lực vô lậu của nó. Bởi vì tâm mình nó thanh thản, an lạc, vô sự thì ng...